«Hai người chăn bò cái ở vùng NewJersey đang đi ngang qua một khu rừng. Trong thực tế, cái điều đã trải qua đối với tình yêu của những người trưởng thành rất giống với một loại hợp đồng dịch vụ không thành văn bản. thậm chí trong chốc lát, để hưởng thụ cuộc sống ngay cả khi bị những chứng cớ về cuộc đời ngắn ngủi bao vây và các thảm họa tiềm tàng đe doạ.
Giống như những phúc lợi xã hội khác, những người được đền bù đó cảm thấy mình vô dụng và không thể chấm dứt được những cảm xúc này, làm cho cảm xúc đó tồn tại dai dẳng. Sự chậm chạp với những thay đổi từ từ không đáp ứng nổi một xã hội thiếu kiên nhẫn. Cũng như vậy, trong xã hội của chính chúng ta, mọi người sống những cuộc đời rất khác nhau phục thuộc vào, chẳng hạn, dòng giống và nền tảng xã hội của họ.
Nếu chúng ta tiếp cận người khác với một thái độ nghi ngờ và thù địch, họ chắc chắn sẽ đáp lại chúng ta tương tự như vậy do đó càng khẳng định sự mong đợi được hạ thấp đi của chúng ta. Những ảo vọng tiêu tan thường được khơi gợi từ một điều tâm niệm rằng ở đâu đó có một người sẽ cứu rỗi chúng ta bằng tình yêu của mình. Ta có quyền tô hồng hoặc bôi đen những nhân vật tồn tại trong câu chuyện cuộc đời của chúng ta.
Vậy chúng ta nợ lý lịch cá nhân của mình điều gì? Chắc chắn là chúng ta được tạo nên bởi những chi tiết đó và phải học những bài học từ chúng nếu chúng ta muốn tránh lặp lại những sai lầm ngu ngốc thường làm chúng ta cảm thấy như mắc bẫy trong vở kịch kéo dài mà chúng ta chính là tác giả. Nhiều năm nay tôi thường lắng nghe câu chuyện của những người khác, đặc biệt là khi có chuyện gì rắc rồi, tôi đã học được rằng con đường mà chúng ta đi trong cuộc đời bao gồm những nỗ lực khiến cho những chiếc bản đồ mà chúng ta tự vẽ ra trong đầu mình phù hợp với địa hình mà chúng ta đang đi. Những thói quen và những sự đáp trả có điều kiện đã khiến cho chúng ta trở thành một sinh vật có một không hai, để chúng ta đáp trả lại cuộc sống những gì là có giá trị đối với chúng ta và với cả những ai đang gắng hiểu chúng ta.
Mỗi chúng ta đều có phạm vi tương đương trong việc thể hiện câu chuyện của mình như thế nào. «Vâng», diễn giả trả lời, «đúng thế đấy ạ». Tôi là một người cha đã hai lần mất con.
Chúng ta cũng nhầm lẫn và bị ngăn cản bởi sự dễ dàng của những sự chuyển đổi này. Trẻ em, những người bị sự hạn chế về kích thước cơ thể và khả năng về tâm sinh lý và kinh nghiệm cũng ở trong thế yếu khi bị so sánh với bố mẹ, chỉ có thể bày tỏ sự bất hạnh của mình bằng cách không làm cái mà người ta sai họ. Quay lại những năm sáu mươi, những việc làm như vậy được gọi là «cố gắng để tìm ra bản thân» (một bậc cha mẹ đã từng đề nghị kéo dài cuộc tìm kiếm con mình đủ để cho đứa trẻ đó có thời gian tìm ra vài người bạn mới!).
Hay chúng ta cần phải chấp nhận rằng đây là những giai đoạn không tránh khỏi, một trong những triệu chứng thông thường của bệnh này? Nhờ có nhiều sự lựa chọn một cách thoải mái, cha mẹ có thể đón nhận một giả định ít cứng nhắc hơn và lạc quan hơn là: khi được yêu thương và ủng hộ, hầu hết bọn trẻ đều trở thành những con người hạnh phúc và có ích, độc lập với bất cứ lý thuyết nuôi dưỡng con cái nào mà chúng phải hứng chịu. Cha mẹ ai đó có thể có hoặc không có điều gì hữu ích để nói, và vô số cuốn sách về nuôi con thường chứa những lời khuyên trái ngược (ví dụ như cuộc tranh cãi muôn thuở về vấn đề «Có nên bế trẻ con khi chúng khóc?» ).
Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Tại sao người ta không chịu hiểu rằng phê phán chỉ tạo ra sự bất hạnh và những hậu quả xấu? Tất nhiên là không thể có câu trả lời duy nhất cho vấn đề này, bởi vì khi ta phải đương đầu với những thói quen hay thái độ cư xử đã lâu, lô gích ít khi có hiệu quả. để đảm nhận những sự liều lĩnh mà phần còn lại trong số chúng ta sợ phải chấp nhận. Ưu điểm lớn của sự ốm đau là nó giúp người ta lẩn tránh bổn phận.
Chúng ta thường đòi hỏi làm hợp đồng với những ai mà chúng ta không tin tưởng; những hợp đồng đó giúp chúng ta chống lại những người mà ta sợ sẽ lợi dụng mình. Khi chúng ta nghĩ về sự mất tự do, ta hiếm khi tập trung chú ý vào cách mà chúng ta tự nguyện áp đặt những hạn chế đối với cuộc sống của mình. Con gái ông ta tặng tôi một tấm ảnh của ông.
Tư tưởng ban đầu được thông qua một cấu trúc có tôn ti trật tự mà chúng ta đã được giáo dục kỹ lưỡng. Và rồi, nhiều năm sau, tôi nhận được một cú điện thoại nói với tôi rằng đứa con trai yêu quí của tôi, Andrew, hai mươi hai tuổi đã chấm dứt cuộc đấu tranh đã ba năm với bệnh lưỡng cực của nó. Tại sao phòng mạch của các nha sĩ lại thường phải gọi điện cho các bệnh nhân của họ để nhắc nhở về cuộc hẹn? Đó là bởi vì việc đi đến chỗ nha sĩ thường gợi cho người ta những trải nghiệm không đáng hài lòng.