Phang em thư ký ngực khủng cùng đi công tác
Một cách chính xác, Renan đã so sánh những người thành lập ra nhà thờ thiên chúa giáo với “những người làm công tác xã hội, đã truyền bá những ý tưởng từ quán rượu này sang quán rượu khác”. Năm 1870, chỉ việc công bố bức điện tín tường trình về việc một vị đại sứ hình như bị sỉ nhục đã làm bùng phát một cơn tức giận là nguyên nhân trực tiếp của một cuộc chiến khủng khiếp. Với lý trí và những luận chứng người ta không thể chống lại được những ngôn từ và khẩu hiệu nào đó.
Những gì liên quan đến sự tác động của các suy luận lôgic vào suy nghĩ của các cử tri mà người ta không nhận thấy, chẳng qua là vì người ta không bao giờ đọc các bài tường thuật về các cuộc miting tranh cử. Người ta gán cho ông ta một sức mạnh có thể xóa tan mọi sự bất công, mọi thứ tội lỗi, và hàng ngàn con người đã hiến dâng cho ông ta mạng sống của họ. Các cuộc miting chính trị là những chỗ trên thế giới mà ánh hào quang của sự thông thái ít có giá trị nhất.
Tùy theo khả năng, trong thời gian rỗi anh ta có thể theo học thêm các khóa học về kỹ thuật để kết hợp với kinh nghiệm hàng ngày tùy theo mức độ của nó. Loại này thích hợp đặc biệt đối với việc lãnh đạo những trận đột kích, họ có thể lôi kéo đám đông bất chấp nguy hiểm và họ có thể làm cho những tân binh trẻ trở nên những người anh hùng. Cho dù cái ý tưởng được bảo vệ hoặc cái mục đích theo đuổi nhạt nhẽo như thế nào, trong sự chống lại niềm tin của họ tất cả những gì lôgic đều phải thất bại.
Sự thông minh giúp cho nắm biết được các mối liên quan của tất cả các sự vật, giúp cho việc hiểu và giải thích chúng, nhưng đó cũng là điều làm cho người ta trở nên yếu đuối và suy giảm năng lực cũng như sức mạnh của niềm tin một cách đáng kể, bởi niềm tin vững chắc là những cái mà các thánh tông đồ cần phải có. Các triết gia đã đi đến kết luận như sau về quan hệ bất cập ngày càng tăng của nền giáo dục của các dân tộc La tinh chúng ta đối với cuộc sống: Kinh nghiệm thứ ba suýt nữa xảy ra sau đó không lâu và chắc chắn sẽ xảy ra vào một ngày nào đó.
Họ cảm nhận thấy có trách nhiệm phải liên tục ngừng giữa chừng để nguyền rủa những hành động tội ác và ca ngợi những hành động đạo đức; sau đó họ thể hiện mong ước chống đối lại những kẻ chuyên chế và thề rằng tự do hay là chết. Tính phiến diện và thái quá của tình cảm đám đông đã bảo vệ nó tránh khỏi nghi ngờ và lưỡng lự. Trong thực tế ở các dân tộc Latinh và Anglo-Saxon chúng tương ứng với những hình dung hoàn toàn trái ngược về nội dung và hình ảnh.
Chúng có thể là những tác động quan trọng, nhưng những ảnh hưởng này luôn chỉ là những ảnh hưởng nhất thời, nếu nó đối lập với những ảnh hưởng của chủng tộc, nghĩa là, đối lập với toàn bộ phả hệ. Lập luận này nghe chừng có vẻ vô lý. Tôi đã khảo sát nó đầy đủ trong một bài viết khác và thấy rằng không cần phải quay trở lại một cách cụ thể ở đây.
Các ý tưởng triết học dẫn đến cuộc cách mạng Pháp đã phải cần đến gần một thế kỷ mới có thể bám rễ vào tâm hồn những người dân. Họ ảo tưởng, rằng với một vài tín điều là có thể cải tạo được một xã hội từ gốc lên ngọn và có thể đem lại một nền văn hóa tinh tế trên một nấc thang đã vượt quá từ lâu của sự phát triển xã hội. Những cái đầu vĩ đại như Galilei, Newton, Leibnitz, không hề có một giây phút nào nghĩ lại, rằng cần phải nghi ngờ về sự thật của những loại huyền thoại như vậy.
Đám đông lúc đó coi người anh hùng thất thế cũng chỉ còn là kẻ bằng vai phải lứa với họ và họ sẽ trả thù cho cái sự đã từng phải thần phục kẻ hơn mình, mà giờ đây đối với nó họ chẳng còn chút kính trọng nào nữa. Nó tạo ra sự khinh thường những tác phẩm văn hóa, chẳng hạn như đối với vở kịch “Những ngôi nhà gỗ thông” và vài năm sau đó cũng chính nó đã làm cho cái sự vu khống bẩn thỉu nhất trước kia của nó trở nên một điều tuyệt vời. Bên trên những quan điểm nền tảng, mà chúng ta đã bàn về quyền lực của chúng, là một lớp những phán xét, ý kiến, ý tưởng, suy nghĩ, chúng liên tục sinh ra và biến đi.
Người ta không lãnh đạo dân dựa theo tính khí nhất thời của họ mà dựa theo tính cách của họ. Tất nhiên chúng vẫn còn là một quyền lực quan trọng, nhưng rõ ràng bởi vì nó chỉ thuần túy là sự phản ánh lại dư luận quần chúng và sự biến đổi không ngừng của họ. Bây giờ chúng ta phải nghiên cứu việc các sức mạnh này cần phải được vận dụng như thế nào và do ai chúng được chuyển thành hành động mang lại lợi ích.
Đám đông chỉ biết đến những tình cảm đơn giản và thái quá. Sau một khoảng thời gian, nếu chúng ta quên mất ai là tác giả của sự khẳng định luôn được lặp lại đó, cũng là lúc ta đã tin vào điều đó. Nó sẽ càng sớm tuân theo bản năng một khi, lẫn trong đám đông, con người trở nên không tên tuổi và từ đó cảm giác chịu trách nhiệm, cái luôn giữ cho các cá nhân khỏi đi quá đà, hoàn toàn biến mất.